Philipphê Phan Văn Minh, Sinh năm 1815 tại Cái Mơn, Vĩnh Long, Linh mục, bị xử
trảm ngày 3/07/1853 tại Ðình Khao dưới đời vua Tự Ðức.Đức Cha Lêo XIII suy tôn
cha Philiphê Phan Văn Minh lên bậc chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-
1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Hết thời gian học tại Pénang, thầy Minh trở về nước và được Đức Cha Cuênot Thể
truyền chức linh mục năm 1940 tại Gia Hữu. Sau khi vua Minh Mạng băng hà,
Giáo hội được hưởng một thời kỳ an bình dễ chịu hơn. Nhờ đó cha Minh có thể đi
thăm viếng, dạy kinh cho các tín hữu ở vùng Tiền Giang, Hậu Giang. Những làng
như Đầu Nước, Xoài Mút, Chợ Búng, Ba Dòng, Cái Nhum, Cái Mơn, Bãi San…
đều còn ghi dấu chân truyền giáo của cha. Khi vua Tự Đức lên ngôi năm 1847, việc
cấm đạo vẫn lắng dịu ít lâu. Nhưng sau đó lại trở nên dữ dội hơn bao giờ hết.
Sau chiếu chỉ tháng 08.1848, và nhất là chiếu chỉ tháng 03.1851 truyền phải chém
đầu thả trôi sông Tây dương đạo trưởng, tra tấn và xử tử các các giáo sĩ bản quốc . .
Vua còn ghi rõ các quan phải triệt để thi hành mệnh lệnh này.
Trong tình hình hết sức khó khăn đó, cha Minh vẫn bình tĩnh chu toàn bổn phận của
một mục tử : khuyến khích các tín hữu, mở các lớp giáo lý và trao ban các bí tích.
Khi đó ở làng Mặc Bắc, có một người tên Nhẫn, vì có lần xin tiền cha Lựu không
được, nên để tâm thù oán và đi tố giác với quan. Ngày 26.02.1853, quan sai lính
đến vây nhà ông trùm Lựu nhưng cha Lựu đã đi nơi khác, còn cha Minh và vài
chủng sinh đang ở trọ đó. Cha Minh sợ quan quân, vì mình mà hại gia đình ông
Trùm, nên ra mặt nhận mình là linh mục. Thế là cùng với bảy vị chức dịch trong
vùng, cha bị bắt trói và đeo gông và đẩy đưa xuống thuyền đưa về giam tại Vĩnh
Long.
Tại đây quan tổng đốc hạch hỏi cha về các linh mục khác, những nơi đã trú ẩn,
nhưng không khai thác được gì cả. Những ngày sau quan dùng mọi cách, khi thì dụ
dỗ khi thì dọa nạt, khi quân lính kéo cha qua khỏi Thập Giá để bắt cha chối đạo.
Nhưng cha Minh vẫn giữ lập trường của mình, trung thành với Đức Kitô và Gíao
hội.
Không thể làm gì hơn được, các quan cho lính đưa cha về giam tại Tuyên Phong
chờ ngày lãnh án. Nghe án xử từ kinh đô đã gửi về cha Minh quỳ gối tạ ơn Chúa,
rồi an ủi các anh em bạn tù nên vui lòng tuân theo ý Chúa, hẹn tái ngộ trên nước
trời. Cha nói : "Xin anh em vững dạ cậy trông Chúa, ngài chẳng từ bỏ ai và ngài sẽ
thưởng công bội hậu cho những ai tận tâm tôn thờ ngài". Cha cũng căn dặn một tín
hữu ở ngoài : tiền bạc của cha nếu còn lại, hãy đem phân phát hết cho người nghèo.
Cuối cùng ngày mong đợi của cha đã đến. Cha vui vẻ lần chuỗi tiến ra pháp trừơng,
qua bờ Sông Long Hồ đến Cái Sơn Bé, quân lính dọn bữa ăn sau cùng, nhưng cha
Minh không thiết gì nữa. Cha chăm chú cầu nguyện, sau hồi chiêng trống rền vang.
Lưỡi gươm lý hình đã đưa linh hồn vị anh hùng tiến thẳng về thiên Quốc. Lời
nguyện cầu thánh thiện sau hết của cha Minh còn âm vang trong lòng những người
hiện diện.
"Lạy Chúa xin thương xót con, lạy Đức Giêsu, xin cho con sức mạnh và can đảm
chịu khổ để vinh danh ngài. Lạy Mẹ Maria xin nâng đỡ con ".
Năm 1960, di cốt ngài được đưa về Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn trong dịp